Suy niệm


LỄ TRUYỀN TIN
Thứ nhất thì ngắm
«Thiên Thần truyền tin cho Đức Bà chịu thai»
(Lc 1, 26-38)
maria21.jpg1. Nhìn ngắm Đức Maria (v. 26-27)
Vị trí của Đức Maria thật là lớn lao và duy nhất trong tương quan với Thiên Chúa và loài người chúng ta: Đức Maria là Mẹ Giáo Hội, trong đó có chúng ta, và Đức Maria cũng là Mẹ Thiên Chúa. Tuy nhiên, theo Sách Tin Mừng của Thánh Luca, tất cả những ơn huệ lớn lao của Mẹ đã bắt đầu bằng một biến cố thật hạn hẹp, thật nhỏ bé, thật khiêm tốn, thật âm thầm và kín ẩn, đó là biến cố Truyền Tin. Nhỏ bé và âm thầm, nhưng đó chính là một kinh nghiệm thiêng liêng làm thay đổi cuộc đời của Đức Maria, và thay đổi cả lịch sử cứu độ.
Trình thuật Truyền Tin có thể được gói gọn trong tiếng «Xin Vâng» của Đức Mẹ; và chúng ta thường hiểu tiếng «Xin Vâng» là câu trả lời tức khắc của Mẹ khi nghe lời đề nghị của Thiên Chúa, qua trung gian của sứ thần Gabrien. Tuy nhiên, nếu chúng ta đặt lời «Xin Vâng» của Mẹ vào trong diễn tiến của trình thuật Tin Mừng, chúng ta sẽ nhận ra rằng, tiếng «Xin Vâng» của Mẹ là điểm tới của cả một cuộc trao đổi khá dài, và nhất là đầy biến động trong tâm hồn.
Trước hết, chúng ta hãy tự hỏi Đức Maria là ai ? Mẹ là một thiếu nữ Israen, cư ngụ tại Galilê, làng Nazarét. Mẹ là một thiếu nữ đã đính hôn, như bao thiếu nữ khác khi đến tuổi trưởng thành. Một cách chính xác, Mẹ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi Đa-vít. Như thế, lúc ban đầu, Mẹ là một cô gái như bao cô gái khác (và cũng tương tự như thế, đối với phái nam). Và có lẽ chúng ta cũng đã như vậy trước khi bước vào hành trình ơn gọi dâng hiến : một cô gái với thân phận bình thường, và với ước mơ về đời mình cũng thật bình thường. Nhưng Mẹ lại không được vậy, vì, có thể nói, Chúa đến làm xáo trộn cuộc đời của Mẹ.
Ở đây chúng ta có thể nhìn lại hành trình ơn gọi của mình và tự hỏi : đâu là những dấu chỉ, những cách thức Chúa dùng để làm «xáo trộn» cuộc đời chúng ta, làm cho chúng ta không thể sống như những cô gái (hay một người) bình thường? Và trong trình thuật Truyền Tin, Chúa không đến trực tiếp, nhưng qua trung gian sứ thần Gabrien; vậy đâu là những biến cố hay những người «trung gian» của Chúa trong cuộc đời và nhất là hành trình ơn gọi của chúng ta ?
2. Lắng nghe Sứ thần Gabrien và Đức Maria
Cuộc đối thoại giữa Sứ Thần và Đức Maria được «đóng khung», nghĩa là khởi đầu và kết thúc, bởi chuyển động vào và ra của sứ thần: «Sứ Thần vào nhà trinh nữ» (c. 28), và sau đó, «Rồi Sứ Thần từ biệt ra đi» (c. 38). Cuộc đối thoại có thể chia làm ba bước. Chúng ta hãy lắng nghe từng bước, nhưng không quên nhìn ngắm và quan sát cung cách đối thoại của Đức Mẹ, vốn diễn tả những tâm tình nội tâm, chẳng hạn sự bối rối lúc ban đầu.
a. Bước thứ nhất (c. 28-29)
Sứ Thần ngỏ lời với Đức Maria: «Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà ». Lời chào của sứ thần dành cho Đức Maria trở thành lời chào của chúng ta, vì Kinh Kính Mừng hằng ngày của chúng ta, của cả Giáo Hội bắt đầu bằng lời chào này: «Kính Mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng bà». Nhưng ở ngọn nguồn, lời chào này làm cho Đức Maria rất bối rối.
Chúng ta hãy hình dung ra Đức Maria đang trong trạng thái bối rối và tự hỏi tại sao? Chúng ta có kinh nghiệm tương tự như vậy bao giờ chưa ? Chúng ta có bối rối như Mẹ không? Nếu chưa, nghĩa là chưa có kinh nghiệm về tình yêu nhưng không Thiên Chúa dành cho chúng ta từ thủa đời đời, thì Mẹ sẽ chia sẻ cho chúng ta, bởi vì tất cả những gì Mẹ nhận được là để chia sẻ. Ơn huệ lớn nhất mà Mẹ nhận được là Đức Giê-su, và Mẹ đã chia sẻ hết cho chúng ta và Mẹ vẫn chia sẻ mỗi ngày.
Và Đức Mẹ tự hỏi về ý nghĩa của lời chào. Không phải vì Mẹ không hiểu điều sứ thần muốn công bố, là ân sủng Thiên Chúa dành cho Mẹ cách nhưng không, nhưng Mẹ không hiểu ý nghĩa của ân sủng: qua ân sủng Thiên Chúa ban cho Mẹ tràn đầy, Chúa muốn nói gì với Mẹ, Chúa muốn mời gọi Mẹ thực hiện điều gì ? Vì thế, ngay sau đó, sứ thần mặc khải điều Thiên Chúa mời gọi Mẹ thực hiện: «Này đây, bà sẽ thụ thai…». Có lẽ chúng ta cũng vậy, khi Chúa đến ngỏ lời với chúng ta, một lúc nào đó trong quá khứ và nhất là trong những biến cố quan trọng của hành trình ơn gọi: chúng ta cũng bối rối và tự hỏi : tại sao Chúa lại chọn con, tại sao Chúa ưu ái với con cách nhưng không như vậy ? Chúa mời gọi con làm gì ?
b. Bước thứ hai (c. 30-34)
Sứ thần xác chuẩn ơn huệ nhưng không Chúa ban cho Mẹ: «Bà được đẹp lòng Thiên Chúa», và sau đó, loan báo sứ mạng mà Thiên Chúa muốn trao cho Mẹ:  «Này đây bà sẽ thụ thai…». Như thế, ơn huệ luôn đi đôi với sứ mạng ; và đó chính là cung cách hành xử của Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ, trong lịch sử Hội Dòng và trong hành trình ơn gọi của mỗi người chúng ta.
Sứ mạng thụ thai, hạ sinh con trai, vốn là « Con Đấng Tối Cao », là sứ mạng quá lớn, lớn hơn tất cả những gì Mẹ có và Mẹ là. Vì thế, Mẹ không thể không nêu câu hỏi, và câu hỏi của Mẹ chất chứa một ngăn trở, cũng rất lớn : « Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng ? » Chính ở nhịp thứ hai này của cuộc đối thoại, mà chúng ta cảm nhận được Đức Mẹ thật sống động, thật mạnh mẽ và cũng thật lý sự nữa. Vì thế, Mẹ thật gần gũi với chúng ta, vì can đảm đặt câu hỏi, nêu ra khó khăn và trở ngại đối với lời mời gọi của Thiên Chúa.
Còn có một điều bất ngờ lớn lao nữa, mà chắc chắn lúc này, Mẹ chưa hình dung ra hết được, bởi vì Mẹ sẽ phải khám phá ra từ từ, đó là cách Đức Giê-su trở nên cao cả, trở nên Con Đấng Tối cao, và nhất là cách Ngài thừa kế ngai vàng vua Đa-vít. Biến cố Đức Giêsu giáng sinh trong máng cỏ, việc dâng Hài Nhi cho Đức Chúa trong Đền Thờ và nhất là lời tiên tri của ông cụ Simeon: «một lưỡi gươn sẽ đâm thâu tâm hồn bà », sẽ hướng Mẹ tới con đường Thập Giá của Con Mẹ.
Sứ mạng Chúa muốn trao cho chúng ta, khi mời gọi chúng ta đi Đức Ki-tô trong đời sống dâng hiến, luôn luôn vượt qua khả năng của chúng ta. Như khi Đức Giê-su mời gọi: «Thì chính anh em hãy cho họ ăn đi». Hay như kinh nghiệm của Thánh Phaolô: «Đã ba lần tôi xin Chúa cho thoát khỏi nỗi khổ này. Nhưng Người quả quyết với tôi: Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối» (2Cr 12, 8-9). Mẹ thật gần gũi với chúng ta, vì can đảm đặt câu hỏi, nêu ra khó khăn và trở ngại đối với lời mời gọi của Thiên Chúa. Chúng ta cũng được Chúa ban ơn huệ để thi hành sứ mạng, chúng ta hãy ca đảm, giống như Mẹ, dãi bày cho Chúa nghe những khó khăn và trở ngại của chúng ta: «việc ấy xẩy ra thế nào được?»
c. Bước thứ ba (c. 35-37)
Sứ thần rất coi trọng ngăn trở mà Đức Mẹ nêu ra; vì thế, để thuyết phục, ngài đã không dựa vào điều gì khác, ngoài quyền năng riêng của Thiên Chúa. Chúng ta hãy dừng lại thật lâu để suy niệm từng lời của sứ thần. Vì lời của sứ thần rất thuyết phục, thuyết phục đến độ, Đức Maria đã thốt ra lời «Xin Vâng» liều lĩnh, hướng đến rất nhiều thách đố, nguy nan và những điều bất ngờ. Trước hết, theo lời của Sứ Thần, Người Con Mẹ sẽ cưu mang và sinh ra, là hoàn toàn do quyền năng của Thiên Chúa và thuộc về Thiên Chúa: «Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, …». Làm phát sinh sự sống, ở nơi mà loài người không thể làm gì được, đó chính là quyền năng sáng tạo của Thiên Chúa.
Sứ thần Gabrien đến gặp Đức Maria, vào thời điểm bà Elizabeth có thai được sáu tháng; vì thế, trong lời đối thoại với Đức Mẹ, sứ thần long trọng nêu ra trường hợp bà Elizabet để thuyết phục Đức Mẹ. Sự kiện bà Elizabet với cung lòng vừa hiếm muộn và vừa già cỗi nhưng lại mang thai, có ý nghĩa đặc biệt trong lời xin vâng của Mẹ và trong mầu nhiệm Nhập Thể của Ngôi Lời Thiên Chúa :
Trường hợp bà Elizabet nhắc nhớ Lịch sử cứu độ; và lời xin vâng của Mẹ đặt trên nền tảng hành động của Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ.
Lời xin vâng của Mẹ làm cho lịch sử cứu độ được hoàn tất: hoàn tất bao gồm hai chiều kích: liên tục nhưng mới mẻ.
Người con bà Elizabet sinh ra sẽ gắn bó đến cùng với Người Con Mẹ Maria sinh ra.
Như thế, Thiên Chúa có khả năng làm phát sinh sự sống ở nơi mà con người không còn hi vọng gì và không thể làm gì được nữa, bởi vì hai ông bà vừa hiềm muốn và vừa lớn tuổi. Và tuyệt tác này lại nhắc nhớ những tuyệt tác tương tự khác trong lịch sử cứu độ, đó là trường hợp các phu nhân hiếm muộn của các tổ phụ, mà vẫn cứ sinh con được, và tiêu biểu nhất là bà Sara, vợ của tổ phụ Abraham. Với Đức Maria, đó cũng là một tuyệt tác, nhưng là một tuyệt tác còn lớn hơn và là duy nhất: Mẹ sinh con không phải từ cung lòng già cỗi hay hiếm muộn, nhưng là từ cung lòng trinh nguyên. Các Giáo Phụ nhìn ra đây là hình ảnh diễn tả công trình sáng tạo của Thiên Chúa, bởi vì lúc khởi đầu, Thiên Chúa cũng làm phát sinh sự sống từ mặt đất trinh nguyên. Đó là vì, đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được. Và đây đã là Tin Mừng cho loài người của chúng ta rồi : đó là Thiên Chúa có thể làm phát sinh sự sống, và làm phát sinh sự sống viên mãn là Đức Kitô, ở nơi mà con người không còn hi vọng gì, ở nơi là tuyệt đối không thể đối với con người. Như thế mầu nhiệm Vượt Qua đã được loan báo ở đây rồi, nơi biến cố truyền tin, bởi vì Thiên Chúa sẽ làm trào vọt sự sống từ sự chết, trong mầu nghiệm Thương Khó và Phục Sinh của Đức Ki-tô.
Chúng ta được mời gọi nhận ra hành động của Thiên Chúa trong lịch sử của Hội Dòng, của Tu Hội, của giáo xứ chúng ta, trong gia đình, trong cuộc đời và trong hành trình ơn gọi của chúng ta, để chúng ta có thể đi theo Đức Ki-tô và phục vụ cho sứ mạng của Ngài, không phải bằng sức lực và khả năng của chúng ta, nhưng quyền năng và sức mạnh của Chúa.
Và biến cố Truyền Tin cũng bày tỏ cho chúng ta yếu tính của đời tu: đó là để cho Thiên Chúa làm phát sinh sự sống thần linh của Người, theo hình ảnh của Đức Ki-tô, ở nơi không thể, là thân xác trinh nguyên của chúng ta, theo cách thức mà Thiên Chúa đã thực hiện nơi Đức Maria. «Trinh nguyên», tiên vàn theo nghĩa thiêng liêng. «Trinh nguyên», tiên vàn theo nghĩa thiêng liêng (bởi vì trinh nguyên thể lý tuyệt đối là không thể và chỉ là vẻ bề ngoài), nghĩa là một con tim khát khao dành trọn cho một mình Chúa và tình yêu của Người.
3. Lắng nghe lời «Xin vâng» của Đức Mẹ (c. 38)
Trong bản văn Hi-lạp của trình thuật Truyền Tin, thật ra không có từ « xin vâng », hay từ «vâng» trong bản dịch Tiếng Việt ở đây, nhưng chỉ có câu trả lời của Đức Mẹ: «Tôi đây là nữ từ của Chúa, xin Người thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói » hay dịch sát hơn: «Tôi đây là nữ tì của Chúa, hãy xảy ra cho tôi theo như lời Sứ Thần». Ngoài ra, «Xin Vâng» còn được đọc theo tiếng La-tinh là «Fiat» ; nhưng thực ra, « Fiat » có nghĩa là «ước gì xẩy ra», hoặc «hãy xẩy ra», cho tôi theo như lời của ngài. Vì thế, chúng ta vẫn cứ tiếp tục nói Đức Mẹ thưa «Xin Vâng», nhưng phải hiểu tiếng «Xin Vâng»  của Mẹ là cả một câu trả lời khá dài và đầy ý nghĩa.
Thật vậy, trong lời «Xin Vâng», Mẹ tự xưng mình là «nữ tì». Chúng ta thường nghĩ ra nhiều tước hiệu cao vời dành cho Đức Maria ; nhưng Mẹ lại thích tự xưng mình, trong biến cố Truyền Tin và trong bài ca bất hủ Magnificat, là «Nữ Tì của Chúa» (Lc 1, 38), là «Phận nữ tì hèn mọn». Chúng ta được mời gọi dõi theo một Đức Maria như thế đó. Không ở đầu ngoài lời nói này của Mẹ, chúng ta cảm thấy thật gần gũi với Mẹ. Vì chúng ta cũng như Mẹ, là nữ tì, là tôi tớ của Thiên Chúa. Sau đó, Mẹ nói «Hãy xảy ra cho tôi theo như lời của Sứ Thần nói». Chúng ta hãy cảm nếm lòng tín thác tuyệt đối Mẹ dành cho Chúa qua lời nói này, bởi vì qua lời này, Mẹ cam kết từ bỏ quyền làm chủ đời mình ; và đó chính là ý nghĩa tận cùng của mọi ơn gọi, và nhất là của ơn gọi dâng hiến.
Chúng ta được mời gọi đặt lời «xin vâng» của chúng ta, khi đón nhận Đức Ki-tô vào cuộc đời chúng ta và sống theo ơn gọi Chúa ban, trong lời «Xin Vâng» của Đức Mẹ. Cũng giống như Đức Mẹ, tiếng xin vâng ban đầu của chúng ta cần phải làm mới lại suốt đời, nhất là ở những khúc quanh quan trọng và trong thời gian tĩnh tâm, hay ở những lúc khó khăn thử thách lớn nhỏ trong hành trình ơn gọi. Trong những giai đoạn khó khăn thử thách lớn, có khi chúng ta được mời gọi thưa «xin vâng» mỗi ngày, bằng cách nhận lời «Xin Vâng» của Mẹ làm của mình, và lời «Xin Vâng» này có nghĩa là : «Con là nữ tì của Chúa, xin xảy ra cho con theo như Lời của Ngài.»
Xin Đức Mẹ đồng hành và phù hộ chúng ta với tình yêu hiền mẫu, để chúng ta cũng sống đến cùng lời «xin vâng» của chúng ta, giống như Mẹ.

Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc


NƠI NGƯỜI CHAN CHỨA ƠN CỨU ĐỘ
52hinh53.jpg  LỜI CHÚA: Lc 4, 24 - 30
  24 Khi đến Na-da-rét, Đức Giê-su nói với dân chúng  trong hội đường rằng: “Tôi bảo thật các ông: không một  ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình.
  25 “Thật vậy, tôi nói cho các ông hay: vào thời ông Ê-li-    a, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải      đói kém dữ dội, thiếu gì bà goá ở trong nước Ít-ra-    en;
 26 thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà goá thành Xa-rép-ta miền Xi-đôn. 27 Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Ê-li-sa, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Ít-ra-en, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Na-a-man, người xứ Xy-ri thôi.”
28 Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. 29 Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành –thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực. 30 Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi.
SUY NIỆM: “Người băng qua giữa họ mà đi. ” (Lc 4,30)
1. Trình thuật Tin Mừng hôm nay dường như đã trưng bày một hình ảnh thiếu đẹp về Thiên Chúa: Người lựa chọn đối tượng để ban ơn. Chẳng hạn, trong ngàn bà góa lâm cảnh đói kém, chỉ có bà góa Xa-rép-ta miền Xiđôn được thi ân ; trong vạn người cùi thời ngôn sứ Êlia, chỉ có ông Na-a-man người Xy-ri được cứu chữa. Nếu quả là thế, độc giả có quyền kết luận: Hóa ra Thiên Chúa không rộng lượng như vẫn tưởng; hóa ra Thiên Chúa có hơn chi con người thường hẹp hòi và ích kỷ ?
Hình như chẳng phải thế, hình như đằng sau những dòng trình thuật xem ra kém yêu, kém thương này có một sự thật khác mà ta cần bình tâm suy xét và khiêm tốn niệm suy. Sự thật này nằm trong chính mạch văn và bối cảnh phụng vụ mùa chay hôm nay.
2.  Trước hết, về văn mạch: câu chuyện Tin Mừng hôm nay tiếp nối sự kiện Chúa Giêsu trở về Nadarét khi tiếng tăm Người đã tràn khắp vùng lân cận miền Galilê. Bài giảng của Đức Giêsu trong hội đường nhà quê Nadarét khiến người đồng hương vừa tán phục những lời hay ý đẹp vừa ngạc nhiên về gốc gác không mấy nổi nang của Người. Sự thật này làm lộ ra một nghịch lý: đang khi những dân ngoại miền Galilê tôn vinh Chúa Giêsu và loan truyền về Người khiến tiếng tăm của Người lan khắp vùng, thì những người đồng hương - và đồng đạo, lại xem ra chẳng mặn mà gì. Nghịch lý này được minh họa bằng chuyện người cùi ngoại đạo Na-a-man và bà góa Xarépta (cũng ngoại đạo) như đã nhắc trên đây.
Thành ra, không phải Thiên Chúa thiên vị hay chọn đối tượng để thi ân, mà là vì con người không tin nhận tình thương và phúc lộc của Người. Thiếu vắng niềm tin đồng nghĩa với việc thiếu vắng Thiên Chúa và cũng có nghĩa là con người không thể nhận được gì từ Người. Nơi Chúa luôn chứa chan ơn cứu độ, cho mọi người và mọi thời. Ơn cứu độ này chỉ đến với những ai thành khẩn ước muốn và thành tâm đặt niềm tin tưởng nơi Chúa.
3. Kế đến, trong khung cảnh Mùa Chay: chắc hẳn sứ điệp Tin Mừng hôm nay vẫn không nằm ngoài lời mời sám hối, mong mọi Kitô hữu hãy lấy đức khiêm nhường thay cho tính kiêu căng. Thậy vậy, một khi đã ước muốn trở về, một khi đã khao khát hoàn lương, một khi đã mơ đến ngày được thanh tẩy, được đổi đời, hối nhân còn cần phải trân quý từng chút nỗ lực, dù chỉ là những việc bé nhỏ, tầm thường ; cần phải khiêm tốn nhận yêu thân phận bụi cát trần trụi nhưng cũng rất cao cả nhờ hình ảnh Thiên Chúa trong mình. Như ta đã biết, vì quá mong được khỏi bệnh, Naaman đã chấp nhận bước xuống dòng sông bé nhỏ, chấp nhận đổ công vào việc tầm thường và đơn giản nhất: trầm mình trong nước Giođan.
Tôi, bạn và anh chị, ta đều biết mùa trở về đã qua đến nửa chặng đường, những tiếng ngâm nga trong các bài ngắm về sự thương khó Chúa Giêsu đã tăng đậm cung thống thiết như giục dồn, hối thúc ta gấp mau trở về. Bằng cách nào ? - Có lẽ ta cần rũ bỏ lý suy bản thân và để Chúa dẫn dắt ta ngang qua những con người xem ra tầm thường, những việc tầm thường với cách thức tầm thường nhất ; ta cũng cần gạt bớt kiêu căng tự phụ để cúi đầu xin ơn đức tin, kiên trì nuôi dưỡng đức tin hầu có đủ điều kiện lãnh nhận ơn cứu độ ;...
Biết sám hối và giúp tha nhân trở về, là ta đã Loan Báo Tin Mừng, đã kéo Ơn Cứu Độ đến cho anh chị em. Vì thế, củng nhau ta mở rộng trái tim để Tình Yêu bước vào. Chính Người sẽ chỉ cho ta biết phải sám hối thế nào và sẽ tuôn đổ trên ta chứa chan ơn cứu độ của Người.
4. Lạy Con Thiên Chúa hằng sống, xin thứ tha cho những lần con ngoan đầu cứng cổ không tin nhận và cậy nhờ lòng xót thương của Người. Xin chỉ cho con con đường trở về và giúp con trở về. Con tin tưởng nơi Người, lạy Chúa của Lòng xót thương và Giàu ơn cứu độ. Xin xót thương và cứu chữa con. Amen.
Nt. Anna Têrêxa Thiên Hoàng
Dòng Đa Minh Thánh Tâm

1 nhận xét: